Hướng dẫn vận hành máy bơm công nghiệp đạt hiệu quả tối ưu

Vận hành máy bơm công nghiệp gồm ba giai đoạn chủ yếu: mở máy, theo dõi trong quá trình chạy máy và tắt máy.

Mở máy

Trước khi mở máy cần tiến hành kiểm tra, nếu cần thì xiết chặt lại các đai ốc ở đầu nối ống hút, đầu nối ống đẩy và bệ máy; kiểm tra áp lực và nhiệt độ nước, nhiệt độ dầu trong hệ thống bôi trơn và làm nguội. Các chỉ số này phải phù hợp với các chỉ số ghi trên lý lịch máy do bên thiết kế chế tạo đề ra. Sau đó kiểm tra, đóng van trên chân không đế, trên ống đẩy và ống dẫn nước phụ, mở van áp kế, cuối cùng kiểm tra điện áp mạng động lực. Nếu tất cả các điều kiện trên đều đảm bảo thì tiến hành mồi bơm. Khi quá trình mồi bơm kết thúc thì đóng động cơ điện chạy trong máy bơm.

Khi bơm đã đạt số vòng quay ổn định và áp kế chỉ giá trị thích hợp( có ghi trên biểu đồ bơm ) thì mở van trên chân không kế và van trên đường ống dẫn nước đến cụm nắp bít. Nếu ổ trục của bơm có làm nguội bằng nước thì mở van dẫn nước đến làm nguội ổ. Sau cùng, mở van trên ống đẩy để bơm cấp nước vào hệ thống.

Trong một số trường hợp cho phép mở máy khi van trên ống đẩy mở nếu trên ống đẩy có van một chiều và việc mở máy như vậy không có khả năng dẫn đến quá tải động cơ.

Theo dõi vận hành

Trong thời gian làm việc, các tổ máy chạy phải êm, trục không bị rung và đảo, lưu lượng và cột áp của máy bơm phải đạt yêu cầu. Các thông số làm việc này có thể dễ dàng kiểm tra được bằng các thiết bị đo lường. Các bộ phận làm việc của máy bơm như bánh xe công tác, ổ bi, vòng chèn là những bộ phận dễ bị ăn mòn, hư hỏng. Vì vậy cần lưu ý đến chúng hơn.

Thông thường khi máy bơm làm việc cần chú ý đến những vấn đề sau:

+ Nhiệt độ ổ trục: Nhiệt độ ổ trục không nên vượt quá 65°C. Trong một số trường hợp nhiệt độ ổ trục có thể cao hơn nhưng nhiệt độ thực tế cũng không được vượt quá 80°C và không được cao hơn nhiệt độ trong gian máy quá 45°C. Nhiệt độ dầu bôi trơn và hộp dầu không được quá 60°C.

+ Áp lực dầu trong hệ thống bôi trơn hay mức dầu trong buồng chứa dầu phải nằm trong phạm vi quy định. Cần thường xuyên kiểm tra chất lượng dầu trong hệ thống bôi trơn về độ nhớt, độ axit và xem dầu có bị cặn bẩn, bị lẫn nước không. Nếu chất lượng dầu không đảm bảo cần thay dầu mới. Thông thường cứ sau 800 đến 1000h làm việc cần thay dầu mới.

+ Sự làm việc của cụm nắp bít. Ở cụm nắp bít cần có nước dẫn đến để bôi trơn và làm nguội. Lượng nước gỉ ra ở đây cần phù hợp với yêu cầu ghi trong lý lịch bơm. Nếu lượng nước gỉ ra nhiều quá sẽ gây tổn thất lưu lượng máy bơm và có thể có khí lọt vào cửa hút, khi đó cần xiết chặt bích ép túp. Ngược lại, nếu lượng nước gỉ ra ít quá hoặc không có nước gỉ ra sẽ gây cháy các vòng túp, mài mòn bề mặt cổ trục hoặc bảo vệ trục. Lúc đó phải lập tức nới lỏng bích ép túp.

Tùy thuộc vào kết cấu máy bơm và điều kiện làm việc của nó, thông thường sau khoảng 2500h làm việc cần kiểm tra và điều chỉnh lại khe hở ổ trục. Ngoài ra, công nhân vận hành cần thường xuyên xem xét tình trạng làm việc của toàn bộ tổ máy như tình trạng khớp nối trục, bích nối ống, bu lông đế...

Khi bơm đang làm việc nếu bị rung động mạnh, trục bơm bị đảo, có tiếng ồn bất thường, nước không lên, hoặc không đủ lưu lượng, cột áp, cần dừng máy, kiểm tra tất cả các van, ống hút, lưới chắn rác và bánh xe công tác.

Tắt máy

Khi tắt máy các thao tác tiến hành ngược lại với trình tự khi mở máy. Điều đó có nghĩa là:

+ Từ từ đóng van trên ống đẩy. Thời gian đóng hoàn toàn van nên nằm trong khoảng 2÷3 phút để chuyển dần bơm sang làm việc ở chế độ không tải.

+ Đóng van chân không kế.

+ Ngắt động cơ điện

+ Đóng van trên áp kế và các đường ống dẫn nước đến cụm nắp bít, đến buồng làm nguội.